PHÁT TRIỂN DU LỊCH NÔNG THÔN BỀN VỮNG TỪ MÔ HÌNH NÔNG NGHIỆP TUẦN HOÀN (KỲ 1): Làng Nấm Đà Lạt – từ khu thử nghiệm đến mô hình du lịch canh nông tiêu biểu

01/12/2025

(Ảnh: Làng Nấm Đà Lạt. Nguồn: trang chủ https://langnamdalat.com/)

Trong bối cảnh Việt Nam thúc đẩy xu hướng phát triển nông nghiệp xanh, nông nghiệp tuần hoàn và du lịch nông thôn gắn với Chương trình OCOP, nhiều mô hình canh nông kết hợp trải nghiệm du lịch đã trở thành điểm sáng. Giữa những mô hình đó, “Làng nấm Đà Lạt” (Cam Ly, Đà Lạt, Lâm Đồng) nổi lên như một ví dụ điển hình về sự kết hợp hài hòa giữa sản xuất nông nghiệp hữu cơ tuần hoàn – phát triển sản phẩm – xây dựng trải nghiệm du lịch nông thôn.

Vào cuối tháng 10/2025, đoàn tập huấn của Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam cùng đại diện ngành du lịch của hơn 20 tỉnh, thành đã có chuyến khảo sát thực tế tại mô hình này. Những câu chuyện, kiến thức và bài học từ Làng Nấm không chỉ mang đến trải nghiệm mới lạ, mà còn gợi mở hướng phát triển bền vững cho nhiều địa phương trên cả nước.

(Ảnh: Đoàn Tập huấn của Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam khảo sát tại làng Nấm. Nguồn: Cục Du lịch Quốc gia)

Làng Nấm Đà Lạt – từ khu thử nghiệm đến mô hình du lịch canh nông tiêu biểu

Khởi nguồn là một khu trồng thử nghiệm nấm hữu cơ do chị Phạm Minh Hoa cùng cộng sự và các chuyên gia quốc tế xây dựng, Làng Nấm Đà Lạt từng bước được mở rộng và chính thức đón khách từ năm 2020. Sau hơn một thập kỷ phát triển, nơi đây trở thành một điểm trải nghiệm độc đáo, thu hút du khách trong và ngoài nước.

Các sản phẩm nấm được nghiên cứu, nuôi trồng và phát triển tại Làng Nấm đã được chứng nhận sản phẩm đạt tiêu chuẩn Việt Nam VCO CN 46-20 BNN, TCVN 11041-1:2017, 11041-2:2017 và Chuẩn hệ thống quản lý thực phẩm an toàn trong sản xuất, chế biến và dịch vụ ăn uống ISO 22000:2018. Danh mục sản phẩm từ nấm được sản xuất tại đây rất phong phú: nấm tươi, nấm khô, nấm dược liệu, nấm cấp đông, snack nấm, bột nấm, pate chay, gia vị, kho quẹt… phục vụ cả thị trường trong nước và xuất khẩu.

Không chỉ đơn thuần là sản xuất, Làng Nấm còn mang lại một “hệ sinh thái” giáo dục – trải nghiệm – tiêu dùng, nơi người tham quan được tìm hiểu đặc tính sinh học của từng giống nấm quý như Linh Chi, Hồng Ngọc, Tú Trân, Hoàng Kim, Hầu Thủ…

Nông nghiệp hữu cơ tuần hoàn – câu chuyện cũ, tiềm năng mới

Giữa không gian yên tĩnh của Thôn Măng Lin, chị Hoa kể về hành trình đến với nghề trồng nấm: từ bỏ công việc ổn định, thu nhập cao ở Hà Nội để tìm đến Lâm Đồng và học lại tất cả từ đầu. Nhưng thay vì nói về những khó khăn, chị chỉ nhẹ nhàng chia sẻ giấc mơ “sống sạch – ăn sạch – sản xuất sạch”.

Tại Làng Nấm, nông nghiệp tuần hoàn được vận hành một cách tự nhiên, bền bỉ: Phế phụ phẩm nông nghiệp (vỏ cây, lõi ngô, xác quả…) trở thành giá thể trồng nấm; bã nấm sau thu hoạch trở lại đất như nguồn mùn hữu cơ giàu vi sinh; đất nuôi dưỡng cây trồng – cây trồng lại phục vụ chăn nuôi và sinh hoạt; chu trình khép kín này giảm thiểu chất thải, tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Hương vị tươi mới, thơm ngon của những loài thực vật bản địa 100% theo mô hình tuần hoàn với kích thước “khủng” hoàn toàn đánh vỡ quan niệm và định kiến cố hữu về những sản phẩm organic thường được gắn liền với những khái niệm “năng suất thấp”, “ngoại hình kém đẹp”, “dễ bị sâu hại”,… cho thấy những triển vọng tươi sáng về phát triển sản phẩm nông nghiệp hữu cơ chất lượng cao không hề kém cạnh khi đặt cạnh sản phẩm từ các cường quốc trên thế giới như Nhật Bản, Mỹ, Úc,…

Người nông dân theo đuổi mô hình tuần hoàn không chỉ tạo sản phẩm chất lượng cao mà còn góp phần giảm phát thải khí nhà kính – một trong những mục tiêu lớn của ngành nông nghiệp Việt Nam. Chị Hoa ví nghề trồng nấm “như chăm sóc một sinh linh trong bụng mẹ”: cần sự tỉ mỉ, sạch sẽ, an toàn sinh học tuyệt đối. Cách nói bình dị, gần gũi của chị khiến mô hình nông nghiệp tuần hoàn trở nên dễ hiểu, dễ tiếp cận với cả những người chưa từng biết về nông nghiệp.

(Ảnh minh họa: Nấm Hầu Thủ được trồng tại Làng Nấm. Nguồn: trang chủ https://langnamdalat.com/)

Kinh tế tuần hoàn, cụ thể là nông nghiệp tuần hoàn, như đã đề cập ở trên, là một khái niệm không hề mới

Các loại phế phẩm trong nông nghiệp đều có nguồn gốc hữu cơ và được xem là đầu vào quan trọng, kéo dài chuỗi giá trị gia tăng trong nông nghiệp. Tuy nhiên trong nhiều năm qua, sản xuất nông nghiệp theo hướng thị trường tại Việt Nam bên cạnh việc mang lại chất lượng và giá trị sản xuất, số lượng và chất lượng nông sản cũng đồng nghĩa với lượng lớn phế phẩm phát sinh từ quá trình sản xuất, chế biến. Theo tính toán của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tổng lượng phát thải từ hoạt động sản xuất nông nghiệp chiếm trên 15% tổng lượng phát thải; lượng khí thải được dự báo nếu không có sự can thiệp sẽ lên tới khoảng 120 triệu tấn CO2 vào năm 2030, trong đó có tới một nửa sẽ đến từ sản xuất lúa gạo (Cục Trồng trọt, 2022). Nguồn tài nguyên này nếu được khai thác, sử dụng tốt không chỉ đem lại hiệu quả kinh tế mà còn góp phần bảo vệ môi trường và giảm phát thải khí nhà kính.

Số liệu ước tính của Tổng cục Thống kê (GSO, 2022) cho thấy tổng khối lượng phế phụ phẩm nông nghiệp của Việt Nam khoảng 159 triệu tấn. bao gồm lĩnh vực trồng trọt (56,6%), chăn nuôi (39%), thuỷ sản (0,6%), lâm nghiệp (3,8%). Việt Nam có nhiều công nghệ và mô hình xử lý phế phụ phẩm tại Việt Nam, nhưng hiệu quả áp dụng chưa cao: đốt rơm rạ 45-60%, chế biến viên gỗ nén 15%, xử lý chất thải chăn nuôi: <50% (Nguyễn Thanh Lâm, Cao Trường Sơn, 2024).

Những hạn chế nêu trên chủ yếu xuất phát từ bốn nguyên nhân cốt lõi: hệ thống cơ chế, chính sách còn thiếu đồng bộ; trình độ công nghệ và thiết bị chưa đáp ứng yêu cầu; giá trị kinh tế của phế phụ phẩm nông nghiệp trên thị trường còn thấp; và nhận thức, hiểu biết về thị trường tín chỉ carbon còn hạn chế. Bên cạnh những yếu tố thuộc về nguồn lực và hành lang pháp lý, một nguyên nhân quan trọng khác là mức độ cam kết của doanh nghiệp đối với mục tiêu phát triển bền vững chưa thật sự mạnh mẽ. Điều này đặt ra yêu cầu phải có sự chỉ đạo quyết liệt hơn từ cơ quan quản lý nhà nước, đồng thời cần sự tham gia chủ động của chính quyền địa phương và cộng đồng để tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư và chuyển đổi theo hướng tuần hoàn, xanh và bền vững.

Nguồn tham khảo

  1. Báo cáo viên (Trang tin của Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương) (2025), Bảo tồn và nhân rộng giống nhãn đặc sản ở Hưng Yên, https://baocaovien.vn/tin-tuc/bao-ton-va-nhan-rong-giong-nhan-dac-san-o-hung-yen/247842.
  2. Hoàng Thu Hiền (2024), Học viện Nông nghiệp Việt Nam, https://tapchimoitruong.vn/chuyen-muc-3/thai-binh-day-manh-thuc-hien-nong-nghiep-tuan-hoan-thich-ung-voi-bien-doi-khi-hau-va-bao-ve-moi-truong-31296
  3. Nguyễn Thanh Lâm, Cao Trường Sơn (2024) Khoa Tài nguyên và Môi trường, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia “Môi trường nông nghiệp, nông thôn và Phát triển bền vững”

Phạm Bảo Ngọc

Bài viết liên quan

Lịch trình của bạn